Tình hình chung Nuôi hươu nai

Nuôi hươu nai được phổ biến ở một số nước trên thế giới, New Zealand là nhà cung cấp lớn nhất về thịt nai nuôi, tính đến năm 2006, New Zealand đã có khoảng 3.500 trang trại hươu, nai, với trữ lượng ước tính 1,7 triệu hươu. Người Evenkya là một dân tộc sống dựa vào việc chăn nuôi hươu nai. Ở Việt Nam, nuôi hươu nai được coi là một mô hình kinh tế khá hiệu quả, giúp nhiều hộ dân xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là việc nuôi hươu sao để lấy lộc,[1] nhung nai tuy bị coi kém phẩm chất hơn nhung hươu sao, nhưng có trọng lượng lớn hơn. Nhung hươu, nai cũng đã trở thành mặt hàng xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao[3]

New Zealand

New Zeland là quốc gia có sản lượng đàn hươu lớn nhất và nhung hươu New Zealand rất phổ biến và được ưa chuộng tại các nước châu Á. Hươu New Zeland khá đa dạng về giống loài như Hươu Rusa (Cervus timorensis russa), Hươu đỏ (Cervus elaphus), Hươu nai sừng tấm – Wapiti (Cervus canadensis), Nai (Cervus unicolor), Hươu Sika, Hươu hoang và một số loài hươu khác. Hình thức nuôi hươu ở New Zeland đã đạt đến quy mô công nghiệp. Các trang trại hươu New Zeland có diện tích rất rộng, trải dài, thức ăn cho hươu được gieo trồng khắp nơi tạo ra môi trường chăn thả hoàn toàn tự nhiên, hầu như không thấy hàng rào bao quanh như một số nơi, hươu có thể sống thoải mái như trong điều kiện tự nhiên. Hươu nuôi tại New Zealand ít bị stress, mệt mỏi hoặc ức chế, cho chất lượng thịt và nhung tốt nhất thế giới. Chất lượng và độ an toàn của nhung hươu Newzealand đã được thế giới công nhận.

Nga

Việc nuôi hươu tại Nga tập trung tại vùng Siberia. Nhung hươu và sừng của con hươu Maral ở vùng Altai Sibiri thuộc Liên Bang Nga đã được các nhà khoa học Xô Viết từng so sánh với nhung hươu ở các nơi khác về chất lượng, các acidamin, nguyên tố vi lượng... thì thấy chất lượng nơi đay có nhiều nổi trội. Cũng chính nơi các nhà khoa học Liên Xô tìm ra tinh chất nhung hươu Pantocrin. ở khu vực này tồn tại và phát triển hai loại hươu chính: Hươu Maral và hươu sao, những năm gần đây các chuyên gia đưa giống hươu sao vào nuôi theo phương thức bán hoang dã giống như giống hươu Maral.

Hươu ở Sibiri được chăn thả trong các trang trại rộng lớn hàng hecta, điều kiện sống của chúng gần như hoang dã. Thức ăn của chúng chủ yếu là cỏ, nấm và thảo dược nên nhung của chúng rất tốt. Nhung hươu của Nga được khai thác theo tiêu chuẩn của Nga, thời gian khai thác đại trà là 40-45 ngày tính từ ngày sừng bắt đầu nhú, chiều dài của nhung hươu khoảng 30 – 50 cm và phân ba nhánh, nếu khai thác sớm (ngắn) thì trong nhung hươu các chất gây béo sẽ chiếm đa phần.

Các cá thể hươu được lựa chọn kỹ càng từ những bố mẹ có thể trạng tốt và chúng được treo số trên tai để tiện khi chăm sóc, theo dõi. Chúng được sống trong các khu vực rộng lớn giáp bìa rừng- núi Altai, sống trong môi trường gần như tự nhiên nên hươu vẫn sống như bản năng vốn có của nó. Thức ăn của hươu rất phong phú bao gồm các loại cỏ thơm, lá cây, thảo dược, nấm… Mùa hè dùng máy cắt cỏ với số lượng lớn và phơi tái để tích trữ đến mùa đông làm thức ăn cho hươu. Nước uống của hươu là nước mưa, nước sông hồ là chủ yếu.

Trong quá trình nuôi hươu không dùng bất kỳ các loại hóa chất hay chất tăng trọng nào nên chất lượng nhung và thịt rất cao. Cỏ khô thu hoạch vào mùa hè làm thức ăn chính của hươu vào mùa đông. Mùa đông thức ăn của chúng chủ yếu là cỏ khô được thu hoạch vào mùa hè. Trong tuyết trắng rất nhiều năng lượng, khi chúng tan ra những năng lượng đó được các loại cỏ, thảo dược thẩm thấu nên chất lượng thức ăn vào mùa xuân có giá trị dinh dưỡng rất cao. Giai đoạn nhung hươu mới nhú chưa được khai thác hoặc khai thác theo đơn hàng nhỏ.

Nai sừng tấm Á-Âu đã được nhốt giữ như vật nuôi nhốt ở Khu bảo tồn thiên nhiên Pechora-Ilych vào tháng 12 năm 1952. Năm 1949 một chương trình nội địa nai sừng tấm Á-Âu có quy mô nhỏ đã được bắt đầu, liên quan đến các nỗ lực chọn lọc sinh sản của các loài động vật trên cơ sở đặc điểm hành vi của chúng. Từ năm 1963, chương trình đã tiếp tục tại trại nuôi Nai sừng tấm Kostroma, trong đó có một đàn 33 con nai sừng tấm thuần hóa như trong năm 2003. Nếu con nai có thể được nuôi, chúng có thể được cung cấp thức ăn chăn nuôi thực tế, sử dụng các sản phẩm khai thác gỗ: cành cây và vỏ cây. rất tốn kém để cung cấp nai sừng tấm Á-Âu nuôi nhốt với thức ăn phù hợp, như con nai này ăn uống cầu kỳ và sẽ không ăn nhánh cây dày hơn khoảng 10 mm (0,4 inch) hay đại loại như vậy.

Mặc dù ở giai đoạn này các trang trại không được dự kiến sẽ là một doanh nghiệp kinh doanh có lãi, thì nó cũng có một số thu nhập từ việc bán nai sừng tấm Á-Âu sữa và quảng bá cho các nhóm khách du lịch. Giá trị chính của nó, tuy nhiên, được nhìn thấy trong các cơ hội mà nó cung cấp cho các nghiên cứu trong sinh lý và hành vi của con nai sừng tấm, cũng như trong những hiểu biết nó cung cấp vào các nguyên tắc chung của động vật thuần hóa. Ở Thụy Điển, đã có một cuộc tranh luận vào cuối thế kỷ thứ 18 về giá trị quốc gia sử dụng con nai như một con vật nuôi nhà.

Những con nai sừng tấm Á-Âu con nhỏ sẽ không quên những con đường đến trại vào mùa đông, vì đây là nơi mà các bữa ăn hàng ngày của chúng luôn được phục vụ. Đây là cách chăn thả bán thuần có theo dõi của người dân của vùng đài nguyên, hoặc chăn cừu của thảo nguyên. Trong phần lớn năm, các con vật được phép dạo chơi tự do khắp khu rừng. Chúng thường không đi quá xa, tuy nhiên, bởi vì chúng biết các trang trại (hoặc trại mùa đông) là nơi để có được món ăn ưa thích của chúng và như một nơi an toàn để phục vụ cho việc sinh nở của chúng.

Một con bê con nai sừng tấm trang trại sinh được tách từ người mẹ của mình trong vòng 2-3 giờ sau khi sinh và được nâng lên bởi người dân. Đó là lần đầu tiên bú bình với một lượng sữa thay thế cho sữa mẹ, và sau đó cho ăn từ một cái . Kết quả là hiệu ứng imprinting làm con vật đang phát triển gắn liền với người dân, món yến mạch hấp sẽ vẫn là một trong các loại thực phẩm yêu thích cho phần còn lại của cuộc sống của nó. Trong khi đó, những con nai sừng tấm mẹ được vắt sữa bởi những cô gái vắt sữa của trang trại, do một cơ chế tương tự con nai con cái sẽ sớm nhận ra họ là "những đứa trẻ thay thế" của nó và yên tâm cho sữa.

Bình thường, nó có thể được cho chạy vào rừng; nó sẽ trở về với trang trại mỗi ngày để được vắt sữa trong phần còn lại của thời kỳ cho con bú mình (thông thường, cho đến tháng Chín hoặc tháng Mười). Vào mùa đông, các loài động vật dành nhiều thời gian ở các khu vườn này trong các khu rừng gần đó, nơi cây bị chặt để ăn các sản phẩm phụ của hoạt động khai thác. Các nguồn cung cấp dồi dào các loại thực phẩm rừng, cộng với khẩu phần ăn hàng ngày của yến mạch và nước muối giữ chúng xung quanh khu vực này thậm chí không cần phải có hàng rào.

Việt Nam

Một con hươu sao đang trong tình trạng nuôi nhốt

Hươu đã được thuần hóa ở nhiều nơi trên thế giới, ở Việt Nam hươu sao cũng đã được nuôi khoảng 1 thế kỷ nay, đầu tiên ở vùng Hương Sơn, Hà TĩnhQuỳnh Lưu, Nghệ An, hiện nay đã phát triển ra nhiều nơi[4] Món quý nhất là huyết lộc hươu pha với rượu uống vào thì làm người ta trở nên khoẻ như vâm.[5]

Hươu sao là một loài động vật quý hiếm và nhung hươu là vị thuốc bổ có giá trị cao. Hươu sao đã được nuôi dưỡng từ lâu đời ở Hà Tĩnh, nó đã trở thành nghề chăn nuôi truyền thống trong nông thôn, đã trở thành nghề chăn nuôi phát triển kinh tế gia đình. Đến nay, tổng số đàn hươu ở Hương Sơn đã đạt trên 1,2 ngàn con, số gia đình nuôi hươu đã tăng cao, có nhiều gia đình đã nuôi đến 10 - 30 con/hộ.[6] Nghề nuôi hươu ở Quỳnh Lưu manh nha những năm 1928, 1930 tại vùng Quỳnh Tiến tại xã Tiến Thuỷ và đây là địa phương xuất hiện nghề nuôi hươu sớm nhất Việt Nam. Năm 1990, đàn hươu huyện Quỳnh Lưu lên tới 1,2 vạn con. Khi đó, lộc nhung đắt đỏ. Quỳnh Lưu là thủ phủ của hươu với 43 xã, thị trấn trong huyện có chuồng nuôi hươu. Xã Quỳnh Yên đứng đầu với số lượng hươu nuôi gần 2.000 con.[5]

Tại xã Hiếu Liêm, huyện Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Nai là nơi có rất nhiều người nuôi hươu, nai lấy nhung, nghề chăn nuôi hươu, nai khá sớm ở vùng đất Hiếu Liêm,[7] chính quyền nơi đây còn dự định biến vùng đất hươu nai này thành một thương hiệu du lịch – dịch vụ tỉnh.[8] Tại xã Quỳnh Yên vào năm 2010, toàn xã có gần 70% số hộ dân nuôi với tổng đàn 1.853 con hươu, nai, trong đó có trên dưới 400 con nai. Xã Quỳnh Yên trở thành một xã đứng đầu huyện về số hộ kinh doanh con giống và lộc nhung. Riêng năm 2010, tại xã Quỳnh Yên thu hoạch được 5 - 6 tấn lộc hươu[4] Xã Mã Đà và xã Hiếu Liêm có hàng trăm hộ nuôi hươu, nai với tổng đàn trên 1.000 con. Tuy nhiên, hơn 100 hộ dân nuôi hươu, nai ở xã Hiếu Liêm có nguy cơ bị phạt tiền và tịch thu vật nuôi vì không chứng minh được nguồn gốc của chúng, ở xã Hiếu Liêm có nguồn gốc vật nuôi rõ ràng, nhưng chưa hợp pháp với tổng số 4 hươu sao và 422 nai. Đến nay, có 103 hộ nuôi 21 hươu sao và 408 nai không chứng minh được nguồn gốc vật nuôi.[9]

Tại xã Đức Minh, huyện Đăk Mil, tỉnh Đắk Nông trong hơn 10 năm nay, nhiều hộ nông dân đã thành công trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi với mô hình nuôi nai đạt hiệu quả cao. Tại xã Hòa Kiến, năm 2011, có 10 hộ nuôi nai với 17 con thì đầu năm 2012, số hộ nuôi tăng lên gấp đôi với 37 con, tập trung tại các thôn Sơn Thọ, Xuân Hòa, Quan Quang, Tường Quang và Minh Đức.[10] Cư Êbur là xã vùng ven của thành phố Buôn Ma Thuột, Phần lớn số hộ dân trong xã làm nghề nông, thu nhập chính của người dân là chăn nuôi nai với chăn nuôi 2.460 con nai lấy nhung và sinh sản nai giống, trong đó 50% là nai đực cho lấy nhung và 50% là nai cái sinh sản, đàn nai đực cho thu hơn 3 tấn nhung.[11]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nuôi hươu nai http://binhphuoc.org/tin-tuc-binh-phuoc/lam-giau-t... http://www.anninhthudo.vn/Phong-su/Xay-nha-tien-ty... http://baodongnai.com.vn/phongsukysu/201203/Nghe-n... http://www.baodongnai.com.vn/kinhte/201206/Tran-tr... http://binhtan.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/lists/p... http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/72/45/68/73076/T... http://www.baodaknong.org.vn/kinh-te/nuoi-huou-nai... http://www.tienphong.vn/Kinh-Te/532855/Nguy-co-mat... http://www.tienphong.vn/xa-hoi/phong-su/528987/Ben... http://vietpress.vn/2012121709231616p66c91/vung-da...